Trụ cột của phong trào Duy Tân, tìm hướng mở thị trường

Kỳ 1: Nhà Duy Tân nổi bật

Hồ Tá Bang sinh năm 1875 tại làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Gia đình ông dời vào cư ngụ ở Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (nay là TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Do đó, Bình Thuận trở thành quê hương thứ hai, nơi ông dành trọn sự nghiệp của mình cho đến cuối đời. Thân sinh của ông là cụ Hồ Tá Hiệu và thân mẫu là bà Nguyễn Thị Đoàn.

Thời niên thiếu, Hồ Tá Bang theo học chữ Nho, nhưng do không thích con đường văn chương, khoa cử nên quyết không đi thi làm quan mà chú tâm trau dồi chữ Quốc ngữ, Pháp văn và tìm đọc các loại sách báo chuyển tải những nội dung mới mẻ, cốt tìm tòi lối thực học. Đến năm 1899, Hồ Tá Bang được tuyển dụng vào làm ký lục ở Tòa Công sứ, tỉnh Bình Thuận. Trong thời gian này, ông kết hôn với bà Huỳnh Thị Lâu (sinh năm1879) con gái ông Huỳnh Văn Quế – một hào phú có tiếng ở thị xã Phan Thiết.

Mặc dù làm việc cho chính quyền thực dân Pháp nhưng Hồ Tá Bang đã sớm tiếp thu tư tưởng canh tân đất nước từ nhà canh tân Nguyễn Lộ Trạch, cũng như nhiều nhân sĩ tiến bộ khắp đất nước hội tụ tại Bình Thuận. Do đó, Hồ Tá Bang mong muốn được hiện thực hóa những ý tưởng duy tân mà ông đã tiếp thu được từ những nhà cải cách, canh tân đất nước đương thời mà ông hết sức kính trọng và ngưỡng mộ.

Cơ duyên đến với ông khi vào cuối năm 1904, cụ Phan Chu Trinh cùng ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng có chuyến đi vào Nam để xem tình hình và chiêu mộ người cùng chí hướng cho cuộc vận động Duy tân. Khi dừng chân tại Bình Thuận vào tháng 5/1905, Hồ Tá Bang cùng Nguyễn Trọng Lội đã đón tiếp cả ba nhân sĩ yêu nước nổi tiếng này và sắp xếp nơi ăn chốn ở chu đáo cho họ. Đồng thời, Hồ Tá Bang cùng Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh (cả hai là con trai nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông) giúp Phan Chu Trinh tập hợp một số sĩ phu ở Bình Thuận để vạch đường hướng cứu nước. Trong thời gian này, Hồ Tá Bang đã học hỏi nhiều điều mới về cách giành độc lập cho đất nước từ cụ Phan Chu Trinh và nhận ra đòi hỏi khẩn thiết của tổ quốc lúc bấy giờ chính là con đường duy tân, cải cách.

Để truyền bá tư tưởng canh tân đất nước của cụ Phan Chu Trinh, Hồ Tá Bang cùng Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh, Ngô Văn Nhượng, Nguyễn Hiệt Chi và Trần Lệ Chất thành lập Liên Thành Thư xã vào tháng 5/1905 tại Đình làng Phú Tài.

Liên Thành Thư xã hoạt động vào mỗi buổi tối thứ 5 hằng tuần và thường tổ chức các buổi diễn thuyết giới thiệu tư tưởng dân quyền của cách mạng Pháp, phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc… nhằm truyền bá tư tưởng dân chủ, ý chí tự cường. Đồng thời kêu gọi bài trừ hủ tục, tiến tới xây dựng nếp sống văn minh, tiến bộ. Với vai trò là viên chức phụ trách việc biên chép giấy tờ tại Tòa Công sứ, Hồ Tá Bang đã tranh thủ được cảm tình của Garnier – Công sứ Pháp tại Bình Thuận để hỗ trợ Liên Thành Thư xã hoạt động. Nhờ đó, những hoạt động của Liên Thành thư xã từ tháng 5/1905 đến tháng 9/1909 về cơ bản thuận lợi.

di-tich-mo-doanh-nhan-ho-ta-bang-tai-so-13-huyen-ham-thuan-nam-tinh-binh-thuan-nguon-flickr.com-.jpg
Di tích mộ doanh nhân Hồ Tá Bang tại số 13 huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận – Nguồn: flickr.com

Mặc dù chỉ tồn tại được 4 năm nhưng những tư tưởng mới mẻ do nhóm trí thức Liên Thành Thư xã tổ chức đã làm lay động người nghe, bước đầu thay đổi suy nghĩ của một bộ phận người dân Phan Thiết và trở thành “điểm son” cho phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Không dừng lại ở Liên Thành Thư xã, Hồ Tá Bang cùng các thành viên của Hội Liên Thành tiếp tục mở trường dạy học nhằm hô hào đổi mới phương pháp giáo dục và kêu gọi mọi người học chữ Quốc ngữ. Điều này đã dẫn đến sự ra đời của Dục Thanh Học hiệu vào năm 1907. Trường được thành lập trên khu đất từ đường của gia đình ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh. Kinh phí hoạt động của Trường do Liên Thành Thương quán và hoa lợi từ 10 mẫu đất mà ông Huỳnh Văn Đẩu – anh vợ Hồ Tá Bang, hiến.

Khi Trường Dục Thanh được thành lập, để thu hút học sinh, Hồ Tá Bang nhận nhiệm vụ đến từng nhà để vận động người dân đưa con em đến trường, song, việc này không mấy thuận lợi do rất ít người dân quan tâm đến học vấn. Tuy gặp nhiều trở ngại nhưng Hồ Tá Bang không nản lòng mà tiếp tục vận động người dân đi học nhằm vun bồi cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ để có thể tìm ra con đường giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.

Dưới sự điều hành của Nguyễn Quý Anh, sự cộng tác nhiệt thành của Hồ Tá Bang cùng nhiều nhân sĩ trí thức khác mà số lượng học sinh theo học Trường Dục Thanh ngày càng đông, có lúc lên tới 70 người, không chỉ trong khu vực Phan Thiết mà còn đến từ các vùng lân cận như Phú Hài, Mũi Né, Phan Rí.

Khi đưa Trường Dục Thanh vào hoạt động, Hồ Tá Bang và cộng sự trong Hội Liên Thành chọn dạy bằng chữ Quốc ngữ hơn là Hán tự vì cho rằng đây là biện pháp chấn dân khí, khai dân trí tốt nhất. Đồng thời, việc học chữ Quốc ngữ còn tranh thủ được cảm tình của chính quyền địa phương, vì lúc này đã có nghị định buộc các trường tiểu học dạy chữ Quốc ngữ cho học sinh.

Không chỉ vậy, Trường Dục Thanh còn mở cuộc vận động cải cách trang phục và cắt tóc ngắn, như là hình thức dứt bỏ hủ tục trong văn hóa Việt Nam. Hồ Tá Bang lúc bấy giờ tuy còn mặc áo dài nhưng tóc đã cắt ngắn rất gọn gàng và không còn đội khăn đóng. Nhiều học sinh của Trường Dục Thanh thấy vậy đều làm theo ông.

Vào năm 1910, trên đường vào Nam, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã dừng chân dạy học tại Trường Dục Thanh. Nhờ mối quan hệ khá tốt với Công sứ Garnier nên Hồ Tá Bang và Trần Lệ Chất sau một thời gian đã chuẩn bị xong giấy thông hành và thẻ căn cước cho Nguyễn Tất Thành (với tên gọi mới là Văn Ba) để vào thuộc địa Nam kỳ. Tháng 2/1911, Hồ Tá Bang và Trương Gia Mô đã hỗ trợ đưa Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Tại Sài Gòn, cũng nhờ sự giúp đỡ của Hồ Tá Bang và những người trong Hội Liên Thành mà Nguyễn Tất Thành được nhận vào làm việc tại phân cuộc của Công ty Nước mắm Liên Thành (thành lập năm 1906) đặt tại Chợ Lớn (nay là số 5 Châu Văn Liêm, quận 5, TP.HCM).

Có thể thấy, trong hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành có dấu ấn của cá nhân Hồ Tá Bang và các nhân sĩ trong Hội Liên Thành. Sự giúp đỡ của những cá nhân này đã giúp Nguyễn Tất Thành khởi đầu sự nghiệp vĩ đại, giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của thực dân Pháp, dành lại độc lập tự do cho đất nước.

Sau khi Trường Dục Thanh chính thức đóng cửa vào năm 1912, Hồ Tá Bang một lần nữa lại đi vận động những phú gia ở Phan Thiết và tỉnh Bình Thuận gửi con cháu ra trú học tại Trường Dòng Pellerin (nay là Học viện Âm nhạc Huế). Cơ sở Liên Thành tại Hội An là nơi nghỉ trọ của học trò trong những tháng nghỉ hè.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *